Bạn có thể xem Ebook tiếng Việt miễn phí tại đây.
Kim Dung và Minh Giáo - Nguyễn Duy Chính
Kim Dung và Minh Giáo
Hình như ai trong chúng ta khi đọc Ỷ Thiên Đồ Long Ký
của Kim Dung (được tiền Phong Từ Khánh Phụng dịch ra Việt ngữ dưới nhan đề Cô
Gái Đồ Long) đều tự hỏi Minh giáo có thực hay không, những bang phái, giáo hội
đã sinh hoạt và ảnh hưởng thế nào trong xã hội. Theo bộ tiểu thuyết kiếm hiệp
này, Minh giáo là một tôn giáo được tổ chức chặt chẽ và qui mô, đứng đầu phe tà
và đã từng nhiều lần đụng độ với phe chính phái. Sự xuất hiện của họ thật kỳ bí
và như một tấm màn dần dần vé lên, mỗi lúc lại cho chúng ta biết thêm một số
chi tiết về hoạt động, về tổ chức cũng như về giáo qui của họ. Trong sử sách,
Minh giáo cũng được nhắc đến, tuy không phong phú như những tôn giáo khác,
nhưng cũng đại biểu cho một hệ thống tư tưởng, cái hệ thống nhị nguyên không
những phổ biến trong nhiều cơ sở triết học của thế giới, mà lại cũng dễ dàng
được quần chúng chấp nhận hơn vì phân biệt trắng đen, thiện ác, có những tiêu
chuẩn nhất định không mơ hồ như hệ thống nhất nguyên. Nhìn theo quan điểm xã
hội, hệ thống tư tưởng của Minh Giáo[1] lại tương đồng với Tây phương và trong một
thời gian khá dài, những cơ sở đó tranh huy với những tôn giáo khác, tuy trên
bình diện triết học không áo diệu bằng Phật học hay Lão học, nhưng về phương
diện tổ chức, Minh giáo có tính quần chúng hơn và phát triển cũng có qui củ
hơn. Chỉ về sau này, khi Nho giáo được đưa lên thành hệ thống học thuật làm
thước đo cho khả năng của kẻ sĩ, đẩy lùi các tôn giáo khác ra khỏi quan trường,
Minh giáo mới suy yếu và dần dần biến mất. Trong phạm vi bài này, chúng tôi sẽ
đối chiếu những chi tiết mà Kim Dung đưa ra trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký với
Minh giáo trong sách vở để nhìn lại một vấn đề luôn luôn hiện hữu trong suốt
lịch sử Trung Hoa: vai trò của tôn giáo trong các cuộc nổi dậy.
Minh Giáo: Bái
Hỏa giáo hay Mani Giáo?
Khi nói tới Ba Tư (tức Iran ngày nay), chúng ta vẫn
hình dung đó là một xứ mà mình vẫn goị là “nghìn lẻ một đêm” với những truyện
thần kỳ thật phong phú. Có lẽ ít ai biết rằng ở vào những thế kỷ đầu Công
Nguyên, khu vực Trung Đông cũng đã có nhiều giao tiếp với Trung Hoa trên nhiều
mặt, và tôn giáo chính của họ khi đó cũng khác hẳn với thế giới Muslim chúng ta
thấy ngày nay. Đã có những triều đại thân cận với nước Tàu đến nỗi khi họ bị
xâm chiếm[2], họ chạy qua cầu cứu và nhờ viện binh để quay về “phục quốc”, chẳng
khác gì những Lê Chiêu Thống, Trần Thiêm Bình ở nước ta. Đời nhà Đường, vì gốc
tích của họ cũng mang giòng máu ngoại vực, việc trao đổi văn hóa giữa các dân
tộc vùng Trung Đông và Hán tộc cũng được dễ dàng. Sự phát triển và thịnh trị
của thời kỳ này cũng nhờ vào chính sách tương đối khai phóng thuở ấy. Không
những khoa học, kỹ thuật, các loại sản phẩm công nghiệp được trao đổi, mà tôn
giáo cũng từ bên ngoài du nhập vào Trung thổ rất nhiều.
Thời kỳ đó, phía Tây
Trung Hoa có một dân tộc tương đối phát triển là Thổ Phồn, tổ tiên của dân tộc
Tây Tạng ngày nay, là một chi lưu của người Khương. Khi vua Đường Thái Tông lên
ngôi (626 Tây Lịch), vua nước Thổ Phồn là Tùng Tán Hãn Bố giao hiếu với Trung
Hoa, được vua nhà Đường gả Văn Thành Công Chúa cho (641 TL). Sử sách chép rằng
Công Chúa mang theo một đoàn tùy tùng rất lớn đến hơn năm ngàn năm trăm người,
lại không biết bao nhiêu là sản vật, gia súc, tư trang, hàng hóa. Từ đó những
vương tôn công tử nước Thổ Phồn sang Trường An du học mở đầu cho một thời kỳ
giao lưu văn hóa giửa Trung thổ và các nước phía Tây. Chính thời này, các phát
kiến của Trung Hoa như chế tạo nông cụ, dệt vải, nuôi tằm, xây cất, làm giấy,
đồ gốm, luyện kim, lịch toán, y học … truyền ra bên ngoài và ngược lại nhiều kỹ
thuật từ các nước Trung Đông cũng truyền vào nước Tàu. (Dư Tử Lựu, Nguồn Gốc
Con Rồng – Long Đích Căn, Thương Vụ An Thư Quán , Hongkong 1985, tr. 176)
Về tôn giáo, việc truyền bá từ bên ngoài vào Trung
Hoa đã có từ lâu. Ngay thời Nam Bắc Triều, một tôn giáo từ Ba Tư có tên là Bái
Hỏa Giáo (Zoroastrianism) được truyền vào Trung Quốc. Tôn giáo này do một
người Ba Tư tên là Zarathushtra – nguyên nghĩa là con lạc đà già – thành
lập từ thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên tại Đại Hạ (nay ở biên giới A Phú Hãn).
Người ta gọi họ là Majus hay Mazdeans. Giáo đồ của tôn giáo này lấy kinh của Ba
Tư là A Duy Tư Đà (Avesta Gatha) làm kinh điển, chủ trương phân ra làm hai
bên thiện ác, nhị nguyên. Theo họ, việc gì quang minh, lửa, thanh tĩnh, sáng
tạo, sự sống thuộc về thiện đoan. Còn hắc ám, ác, dơ bẩn, phá hoại, chết thuộc
về ác đoan. Con người được tự do chọn lựa để làm điều thiện hay điều ác. Khi
chết đi sẽ được Thượng đế (tức Ahura Mazda) phán xét, ai qua được thì lên thiên
đường, người nào không qua thì xuống địa ngục. Vì thế khi còn sống mọi người
phải làm lành, lánh dữ, bỏ chỗ tối mà tìm chỗ sáng. Châm ngôn đạo đức của họ là
nghĩ điều lành, nói điều lành, làm điều lành. Họ có một nghi thức riêng
để lễ “thánh hỏa” dưới quyền chủ tế của một “majus”. Tôn giáo này có thời là
quốc giáo của Ba Tư trong triều đại Sasanian.
Đạo
Bái Hỏa truyền vào bắc Trung Hoa từ năm 516-9 theo phái đoàn của người Ba
Tư. Đến đời Tùy, họ được thành lập ở Trường An những khu vực riêng
để hành đạo. Ngoài việc trao đổi các sứ thần giữa hai bên, các
thương nhân Ba Tư cũng sang Trung Hoa buôn bán. Hiện nay, tại Quảng Châu, Tuyền
Châu, Dương Châu và Trường An, Lạc Dương vẫn còn nhiều dấu tích của người Ba Tư
thời đó.
Năm
621, tiên từ (shrine) đầu tiên được xây dựng cho người “hồ” ở kinh đô và đến
năm 631 thì một tu sĩ (Magi) được vào làm quan trong triều. Đến năm 652, khi
người Muslim từ Ả Rập (Islam) sang xâm chiếm Ba Tư, họ bị đánh đuổi, một phần
chạy sang phía tây nước An (nay còn lại ở Bombay được gọi là Parsees có nghĩa
là người Persian) nhưng một số lớn chạy sang Trung Hoa, khi đó vào đời nhà
Đường. Vua cuối cùng của triều đại Sasanian là Yazdegird đệ tam (Yazdagard III)
cầu viện vua Đường Thái Tông để đem quân khôi phục đất nước. Tuy nhiên,
nhà Đường từ chối và họ đành phải sống lưu vong với dân chúng vùng Tân Cương ở
Trung Á nhưng lại bị thổ dân phản bội. Gần đây, khi
khai quật một số địa điểm vùng Tây An, người ta đã tìm thấy một số tiền làm
bằng bạc của Ba Tư thời kỳ này, nhiều mộ chí bằng cả hai thứ tiếng Ba tư và chữ
Hán. (Dư Tử Lựu, tr. 183)
Nhà Đường
tiếp tục bảo vệ con của Yazdegird là Peroz (Firuz) và cho phép họ được
xây cất đền thờ và tiếp tục hành đạo. Peroz vẫn được công nhận là vua nước Ba
Tư và được phong một chức võ quan tại triều. Ong ta chết ở Trường An và con là
Narseh được tập tước vương. Narseh cố gắng đem quân Tàu về lấy lại nước nhưng
thất bại và những người thuộc triều đại Sasanian định cư tại Trung Hoa trong
khoảng 200 năm. Một số tiểu quốc được hình thành nằm giữa biên giới Ba Tư và
Trung Hoa không theo đạo Hồi, độc lập đã tồn tại trong nhiều năm và nhiều phái
bộ, sứ thần đã đến kinh đô nhà Đường trong khoảng từ 713 đến 755 sau TL. Những
cư dân của các tiểu quốc này trở thành những người buôn ngọc, phù thủy, thợ thủ
công và thương nhân. Họ xây dựng bốn, năm tiên từ (thánh đường), tại Trường
an, hai, ba tiên từ tại Lạc dương, một tại Khai Phong và nhiều nơi khác như
Dương châu, Đôn Hoàng, Thái Nguyên … Họ cũng di cư đến nhiều nơi khác, có người
tới tận Hải Nam và vùng nước ta nhưng không biết rồi ra sao.
Đến năm
845, nhà Tống tiêu diệt các tôn giáo và bài xích tất cả các tôn giáo từ nước
ngoài, nhất là đạo Phật và Bái Hỏa giáo cũng bị tiêu diệt. Vì họ coi lửa là đại
biểu của quang minh (sáng sủa), nên việc thờ phụng “lửa thần” (thánh hỏa) là
nghi lễ chính yếu. Người Trung Hoa gọi tôn giáo này dưới nhiều tên như tiên
giáo, hỏa tiên giáo, bái hỏa giáo, ba tư giáo … Bái hỏa giáo đến đời Nguyên
hay Minh thì không còn ai biết đến. Theo sách vở, bái hỏa giáo là một tôn giáo
chỉ thu hẹp trong phạm vi chủng tộc và không chủ trương bành trướng hay chiêu
dụ người ta theo đạo. Kinh điển của họ không được dịch sang tiếng Tàu và có lẽ
người Tàu cũng không ai đổi qua theo đạo này. Tuy nhiên, họ cũng đem lại một số
ảnh hưởng, vì đời Đường là triều đại mở cửa nên nhiều kỹ thuật mới được du
nhập, nhiều sắc thái văn hóa được đón nhận trong sinh hoạt hàng ngày.
Một tôn giáo khác cũng truyền từ Ba Tư là Ma Ni giáo
(tức Manichaeism, do Mani người Ba Tư sáng lập vào thế kỷ thứ 3 sau Công
Nguyên). Ma Ni giáo kết hợp nhị nguyên luận của hỏa tiên giáo, đồng thời dung
hợp nhiều tôn giáo trong đó có một số tư tưởng của Phật giáo và Ki tô giáo mà
thành. Ma ni giáo được gọi là tôn giáo của ánh sáng (Religion of Light) và
truyền vào Trung Hoa qua nhiều sự tích ly kỳ. Cho đến giờ phút này, người ta
vẫn chưa rõ Mani là tên người hay là một cách xưng hô tôn quí. Nghĩa của chữ
này cũng không rõ ràng, theo cổ ngữ Hi Lạp thì là skeuos và homilia, nhưng hình
như nguyên thủy lại bắt nguồn từ tiếng Babylonian-Aramaic có nghĩa là Vua của
Anh Sáng.
Mani sinh ra tại Baghdad, khoảng thế kỷ thứ 3, dưới
thời mà người Ba Tư làm chủ cả khu vực Mesopotamia, ngày nay là Iraq. Cha ông
hình như là người Mandaeans. Sau khi đi lang thang trong vài năm, sống đời khổ
hạnh để suy tưởng về giáo lý, năm 242 (có chỗ chép rõ là ngày 20 tháng 3) ông
được mặc khải và tự cho mình là một nhà tiên tri, lập nên một giáo phái mới. “Cũng
như Phật Thích Ca đến An Độ, Zoroaster với Ba Tư, hay chúa Jesus đến miền Tây,
thời kỳ này thiên sứ đến với ta, tức Mani, đến với vùng Babylonia”. Đó là
lời tuyên bố của ông và tự cho mình là một tông đồ của Thượng đế. Ong lại đi
lên Bactria ở miền tây bắc An Độ, và nghiên cứu thêm về Phật giáo. Ong chịu ảnh
hưởng sâu đậm của các tư tưởng Gnostic (một chi phái của Thiên Chúa giáo thời
kỳ sơ khai, bị coi như tà giáo). Đến năm 241, ông quay về Ba Tư sau khi vua
Shapur đệ Nhất lên ngôi, là người dung chứa các tôn giáo. Ong bắt đầu truyền
giáo, dung hợp cả Gnosticism, Zoroastrianism, Christianity, Buddhism, Lão giáo
và những tôn giáo địa phương tại Ba Tư. Trong suốt thời vua Shapur, ông được tự
do truyền giáo và hoạt động trong khối giáo đồ của mình. Thế nhưng khi vua
Bahram đệ nhất lên ngôi, người giáo đồ Bái hỏa coi Ma ni là thù nghịch. Mani bị
cầm tù và bị đóng đinh, xác bị bêu tại cổng thành để răn đe những người theo
ông. Những tín đồ của đạo Mani cũng bị tàn sát không thương tiếc. Theo sử sách
ông chết khoảng 276-277 sau Công Nguyên. Tôn giáo của ông truyền sang tận Bắc
Phi, Nam Âu châu và Trung Hoa.
Tư tưởng chính yếu của đạo Manichaeism là nhị nguyên
đối đãi và mục tiêu của con người là làm sao giải thoát được bằng cách khai mở
luồng ánh sáng vốn bị vật chất giam hãm. Có hai đẳng cấp trong giáo phái này[3],
đẳng cấp tu sĩ là thành phần được “thiên khải”, và “giáo đồ” là đại số quần
chúng phục vụ cho thành phần được Thượng Đế lựa chọn. Tu sĩ sống độc thân, khắc
kỷ, chỉ lo đi truyền giáo và học đạo. Những tu sĩ chắc chắn sẽ được giải thoát
ngay khi chết vì họ đã được ân sủng của minh tôn. Giáo đồ có quyền lập gia đình
nhưng phải chăm lo phục vụ các trưởng lão, và khi chết đi sẽ được tái sinh làm
tu sĩ. Chính đạo này, dưới cái tên Ma ni giáo, Minh tôn giáo hay Minh giáo đã
ảnh hưởng quan trọng trong sinh hoạt xã hội của Trung Hoa trong một thời gian
khá dài, hơn hẳn những tôn giáo khác cũng xuất xứ từ Ba Tư.
Ma ni giáo truyền vào Trung Thổ khoảng năm 694 đời
nhà Đường, mặc dù đạo này có một số ảnh hưởng đến Lão giáo từ trước đó. Năm 694
cuốn “Nhị Tông Kinh” (Erzongjing) bộ kinh chính yếu của họ được đem vào nước
Tàu. Theo Minh Sử viết vào thế kỷ thứ 17, một mục sư vào truyền giáo dưới thời
vua Cao Tông (650-83) nhưng nhiều học giả không đồng ý mà chỉ công nhận là năm
719 có một đại trưởng lão của họ từ Tokharistan đến mà thôi. Năm 732, trong một
chỉ dụ của nhà Đường có nhắc tới họ đi truyền tà giáo mang danh nghĩa một tông
phái của đạo Phật. Tuy nhiên vì đây là một tôn giáo của người Hồ nên triều đình
không cấm chỉ miễn là họ giới hạn việc sinh hoạt trong những dân tộc thiểu số.
Năm 745, người Hồi Hột (Uighur) kiến tạo một vương quốc rộng lớn, kéo dài từ
sông Ili (Y lê) đến tận sông Hoàng Hà. Một trong những tiểu vương (khans) theo
đạo Ma ni năm 762 và Ma ni giáo trở thành quốc giáo của Tân Cương. Tới lúc đó,
một số lớn người Hồi (Uighurs) đã cải đạo theo đạo Ma Ni và sau khi họ giúp nhà
Đường chống lại loạn An Lộc Sơn, một số đông người Hán cũng theo. Họ có thể đã
xây cất nhiều đền đài từ trước nhưng sách vở chỉ chắc chắn là có một đền Ma ni
– dưới tên Hán tự là Đại Vân Quang Minh (Dayun huangming) được thành lập tại
Trường An năm 768. Khoảng năm 771, tại các vùng Kinh, Dương, Hồng (Nam
xương), Việt (Thiệu Hưng) cũng có đền Ma ni và đầu thế kỷ thứ 9, tại Lạc Dương,
Thái Nguyên đã có những đền thờ của họ được xây cất. Như vậy xét về mặt địa lý,
giáo phái này bành trướng từ miền Tây Trung Hoa lan sang tận miền đông, sát bờ
biển. Nhà Đường tương đối khoan dung hơn người La Mã khi họ bách hại người
Thiên Chúa giáo và người Ma ni giáo vào thế kỷ thứ tư sau Công Nguyên.
....
Bạn có thể Download full truyện tại đây.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Nguyễn Tuấn Anh (Mr)
Sales Staff
Mobile: 01697315946
Email: n.tuananh02232@gmail.com
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
CleverAds - Make customers come to you
Google Premier SMB Partner
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
0 Response to "Kim Dung và Minh Giáo - Nguyễn Duy Chính"
Post a Comment